SCUE Magazine Số 2 Tháng 6 2013 | Page 11

Chöùng khoaùn giao dịch như các cổ phiếu niêm yết .

Chi phí thấp : Vì ETF theo cơ chế quản lý thụ động , do vậy chi phí quản lý của ETF thấp hơn nhiều so với các quỹ đầu tư khác . Ví dụ như tỷ lệ chi phí hoạt động ( chi phí / tổng tài sản mà quỹ quản lý ) của Spider chỉ là 0,09 %/ năm và điều này cho phép nhà đầu tư thu về mức lợi nhuận gần bằng với lợi nhuận thực sự của toàn thị trường . Trong khi đó , các quỹ tương hỗ ( giúp nhà đầu tư lựa chọn cổ phiếu và có tỷ lệ chi phí hoạt động vào khoảng trên 1 %/ năm ), khiến nhà đầu tư có khả năng thua lỗ và chi phí quá cao .
Hiệu quả sử dụng vốn huy động cao hơn : Thay vì phải thanh hoán để lấy tiền đầu tư , thì công ty quản lý quỹ và các thành viên lập quỹ chỉ cần hoán đổi chứng khoán cơ cấu lấy chứng chỉ quỹ và ngược lại , dẫn tới toàn bộ số vốn huy động được đều được đầu tư vào chứng khoán , khác với quỹ đóng hoặc quỹ mở khi phải luôn duy trì một lượng tiền mặt nhất định .
Chênh lệch giữa NAV và giá thị trường thấp : Điều này có được nhờ vào cơ chế kinh doanh chênh lệch giá rất riêng của ETF như đã giải thích ở phần trên . ETF có hai loại giá đặc trưng là giá ETF do cung cầu trên thị trường quyết định và giá của rổ chứng khoán mà quỹ ETF nắm giữ . Bất cứ lúc nào có sự khác biệt giữa hai loại giá này , NĐT sẽ kinh doanh chênh lệch giá , từ đó làm cho giá của ETF không khác biệt nhiều so với giá trị tài sản mà nó nắm giữ .
Rủi ro cần cân nhắc
Rủi ro khác biệt giá trước khi niêm yết : Trước khi được phát hành , quỹ ETF huy động vốn từ các NĐT tổ chức để hình thành nên vốn mồi ( seed fund ). Vốn mồi được sử dụng để tập hợp các chứng khoán cơ cấu và sau đó sẽ đổi thành chứng chỉ quỹ để bán ra công chúng . Như vậy , từ lúc góp vốn cho đến lúc quỹ được phát hành và niêm yết thì cần một khoảng thời gian nhất định . Trong khoảng thời gian đó , nhà đầu tư có thể phải đối mặt với rủi ro biến động giá của tài sản cơ cấu và của ETF .

8 . Baûn tin SCUE

Biểu hiện không vượt trội chỉ số : Do ETF mô phỏng chỉ số nên ngay cả khi thị trường trong giai đoạn tăng trưởng mạnh thì ETF cũng không thể thu được mức lợi nhuận vượt trội chỉ số mà nó mô phỏng . Đây cũng chính là yếu điểm lớn nhất của loại hình quỹ ETF .
Rủi ro hệ thống đối với chỉ số mục tiêu : Về mặt lý thuyết , đầu tư vào một danh mục sẽ giảm được mức biến động giá và tác động của từng chứng khoán riêng lẻ lên toàn bộ danh mục . Tuy nhiên , bản thân của chính danh mục đầu tư cũng không thể tránh khỏi rủi ro hệ thống . Do ETF là một dạng đầu tư chỉ số , rủi ro hệ thống của ETF cũng tương đương với rủi ro biến động của thị trường . Vậy nên khi thị trường giảm , chỉ số ETF giảm và nhà đầu tư cũng phải gánh chịu thua lỗ .
Sai số trong mô phỏng : Sai số mô phỏng là độ lệch chuẩn giữa tỷ suất sinh lợi của ETF và tỷ suất sinh lợi của chỉ số cơ sở . ETF có sai số mô phỏng càng nhỏ thì càng thu hút được nhà đầu tư . Đối với nhà quản lý quỹ ETF , chức năng chính và quan trọng nhất là duy trì sai số mô phỏng càng nhỏ càng tốt bằng cách cơ cấu lại danh mục của quỹ . Trong thực tế , do sự biến động của thị trường và nhiều yếu tố khác như các hoạt động chia , tách , sáp nhập doanh nghiệp hay phát hành cổ phiếu thưởng … làm cho nhiệm vụ giảm thiểu sai số mô phỏng trở nên khó khăn hơn , đặc biệt trong trường hợp thị trường thiếu thanh khoản .
Tình trạng chênh lệch giá : Giống như cổ phiếu , ETF chịu ảnh hưởng bởi khối lượng giao dịch . Khi khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng trong thời gian ngắn , hoặc giảm xuống một cách đáng kể sẽ tạo ra chênh lệch giữa giá giao dịch và NAV . Mặc dù ETF có cơ chế giao dịch đặc biệt để cân bằng chênh lệch này , tình trạng chênh lệch giá vẫn có thể diễn ra và sẽ gây bất lợi cho nhà đầu tư .
Rủi ro tỷ giá đối với các ETF nước ngoài : Biểu hiện dễ thấy nhất của rủi ro này là trong trường hợp ETF được niêm yết ở thị trường nước ngoài còn rổ chứng khoán cơ cấu được niêm yết ở thị trường trong nước , nếu nội tệ bị mất giá so với ngoại tệ , NAV của ETF cũng giảm theo và NĐT phải gánh chịu mức lỗ này .
Qua những gì đã trình bày trong bài viết , có thể thấy rằng ETF cũng giống như bất cứ loại hình đầu tư nào , lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro . Nó không hoàn toàn là một công cụ đầu tư an toàn với lợi nhuận thấp và chắc chắn , nhưng cũng không phải là một sản phẩm rủi ro với lợi nhuận hứa hẹn cao . Có thể xem ETF như một dạng đầu tư tương tự đầu tư danh mục nhưng có chi phí thấp và suất sinh lời ngang với mức sinh lời của thị trường . Điều quan trọng là chính các nhà đầu tư chúng ta phải hiểu rõ mục tiêu đầu tư của mình để có quyết định đầu tư phù hợp và sáng suốt nhất .
Trần Bảo Thùy CTV K37