Công ty xử lý nước quy trình xử lý nước thải nuôi tôm | Page 3

Kế tiếp trong chuỗi thức ăn là các động vật bậc một – động vật ăn thực vật. Ðiển hình của các động vật bậc một ở vùng nước ven biển là các loại ngao, vẹm, hàu các loài này có thể tiêu thụ các thực vật phù du và cải thiện điều kiện trầm tích đáy. Các loài cá ăn thực vật phù du và mùn bã hữu cơ như cá măng, cá đối cũng được thử nghiệm sử dụng ở các kênh thoát nước thải khó tái chế (Micheal J. Phillips, 1995). Trong thực tế, để đảm bảo đạt hiệu suất xử lý cao các chất ô nhiễm với chi phí vận hành tối thiểu, người ta thường sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, kết hợp nhiều hệ thống và các tác nhân khác nhau. Tùy theo hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước thải khó tái chế và điều kiện cụ thể của từng khu vực. Có rất nhiều phương pháp phản ứng sinh học có thể sử dụng để xử lý môi trường do nuôi trồng thuỷ sản ven biển, mỗi phương pháp đều có những ưu và khuyết điểm riêng, xong sử dụng các hồ sinh học và các hệ thống đất ngập nước uống vẫn có ưu thế hơn cả xét về phương diện kinh tế lẫn môi trường , nhất là quy mô nuôi chưa cao, hệ thống nuôi còn nhỏ lẻ chủ yếu mang tính chất nông hộ chu kỳ thải từ 3 – 15 ngày/lần. 3. Hồ sinh học Bao gồm một chuỗi từ 3 đến 5 hồ, nước thải khó xử lý được làm sạch bằng quá trình tự nhiên thông qua các tác nhân là tảo và vi khuẩn. Mối quan hệ giữa sinh vật , thực vật trong hồ phản ứng sinh học là mối quan hệ thông qua oxy và thông qua các loại chất dinh dưỡng cơ bản. Trong hồ luôn diễn ra các quá trình như quang hợp, khuếch tán oxy vào nước sạch. Nhưng quá trình quang hợp chỉ xảy ra trong điều kiện có ánh sáng, ánh sáng chiếu vào nước uống phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là chiều sâu của nước sạch và sự tồn tại hàm lượng chất hữu cơ lơ lửng nhiều hay ít. Mô hình này có thể áp dụng cho những nơi có diện tích đất lớn, để quy trình xử lý nước thải trong nuôi tôm sẽ cho hiệu quả về gây hại môi trường và kinh tế. 4. Các hệ thống đất ngập nước Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ven biển diễn ra ở vùng nước sạch mặn – lợ nên có thể sử dụng các hệ thống đất ngập nước sạch để xử lý ô nhiễm môi trường đặc biệt là các khu vực rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn (RNM) là một hệ sinh thái ở vùng đất ngập nước uống rất phổ biến ở ven biển Việt nam. Có thể sử dụng RNM như một bể lọc sinh hóa học các loại chất ô nhiễm hữu cơ từ chất thải đô thị, công nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo tính toán lý thuyết, ở điều kiện Việt Nam, 1 ha RNM mỗi năm phát triển 56 tấn sinh khối và có thể hấp thụ được 21 kg nitơ, 20 kg phospho (Jesper Clausen, 2002). Theo Robertson and Phillips, 1995 để xử lý cho 1 ha nuôi tôm công nghiệp thì cần một diện tích rừng ngập mặn tối thiểu là 22 ha [15]. Rừng ngập mặn có thể